Các yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân của ung thư vú chưa được biết rõ, nhưng với những nghiên cứu dịch tễ học cùng với những hiểu biết sâu hơn về sinh học của tế bào tuyến vú đã mang lại những cơ sở mới cho bệnh này. Dưới đây chỉ nói về những yếu tố nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ.
Những phụ nữ trong gia đình có nhiều người bị ung thư vú hoặc có 2 người rất gần (mẹ, chị/em gái) bị bệnh thì có thể có nguy cơ mắc bệnh. Các yếu tố nguy cơ khác như sự đột biến của một số gen; lối sống (ăn thức ăn nhiều mỡ); tuổi cao (trên 35 tuổi); chịu tác động lâu dài của oestrogen (phụ nữ có kinh nguyệt sớm trước 12 tuổi và mãn kinh muộn sau 55 tuổi); có con muộn; không cho con bú; không sinh con; béo phì sau mãn kinh; dùng hormone thay thế… Ngoài ra các yếu tố từ môi trường ô nhiễm như hút thuốc, ô nhiễm công nghiệp, khói xe và hóa chất… đều được coi là yếu tố nguy cơ cao trong bệnh ung thư vú.
Dấu hiệu nhận biết bệnh ung thư vú
Đa phần ung thư vú được phát hiện là do chính người bệnh, khi họ ghi nhận thấy một sự thay đổi ở tuyến vú. Thường gặp nhất đó là một khối u hay một chỗ dày cứng lên không đau ở vú. Hoặc cũng có thể do thầy thuốc phát hiện qua một lần khám sức khỏe thường kỳ.
– Đau tức ở ngực:
Bạn bỗng cảm thấy ngực mình đau tức ngay cả những ngày bình thường, khi tới gần ngày kinh nguyệt thì ngực bạn càng thấy đau hơn nữa, giống như bị sưng vù lên vậy, cảm giác đau khiến bạn không dám chạm vào ngực mình nữa.
Luôn theo dõi những thay đổi của vú
– Vú to lên bất thường:
Vú bạn luôn cương cứng và to lên hơn mức bình thường kể cả chưa tới ngày kinh nguyệt.
Kích thước, hình dạng vú méo mó không bình thường.
– Có hạch ở dưới nách:
Bạn sờ thử từ bầu ngực vuốt lên trên theo đường hõm nách thì thấy có hạch nổi lên ở nách.
Hạch ở nách là giai đoạn đầu tiên phát triển bệnh ung thư vú.
– Có u cục ở vú:
Khi sờ nắn theo đường vòng xung quanh vú thì bạn sẽ thấy có u cục nổi ở trong vú giống như là những viên sỏi nhỏ ở trong vú.
Những u cục này có thể là u lành tính hoặc u ác tính, nên đi khám xét để có được hướng điều trị tốt nhất và kịp thời.
– Núm vú bị tụt vào trong:
Núm vú bị tụt hẳn vào trong, cứng, dùng tay kéo ra cũng không được, núm vú không cương lên được như bình thường mà cứ vẫn tụt vào trong như thế.
Vùng da quanh đầu núm vú thay đổi:
Vùng da xung quanh đầu núm vú bị co rút da, co rút núm vú, nhăn nheo.
Có các hạt nhỏ ở quầng vú xung quanh núm vú
Có biểu hiện của viêm da vùng quanh vú:
Da đỏ, phù dưới dạng da cam.
Chảy nước.
Bong da vảy nến.
Ngứa dị ứng.
Ðiều trị bệnh ung thư vú
Phẫu thuật cắt bỏ vú là điều trị chủ yếu. Nếu ở giai đoạn sớm có tỉ lệ khỏi bệnh là 98-99%, chỉ khoảng 1-2% trường hợp tái phát. Phẫu thuật cắt bỏ vú tận gốc ngày nay ít được dùng vì mức tàn phá rộng, để lại nhiều di chứng nặng nề cho bệnh nhân. Phương pháp điều trị bảo tồn vú đang là hướng đi mới, chỉ mổ lấy rộng khối u cùng xạ trị hỗ trợ cũng khá hiệu quả. Tỉ lệ tái phát từ 7-13%. Các loại phẫu thuật ít tàn phá hơn, bảo tồn các cơ ngực lớn, bé càng ngày càng cho thấy hiệu quả trong việc điều trị tại chỗ căn bệnh. Tuy nhiên, có một số chống chỉ định của phương pháp điều trị bảo tồn vú, đó là:
Có hai hoặc nhiều khối u nằm ở các góc phần tư khác nhau của vú.
U lan tỏa, giới hạn không rõ.
U to nằm trong tuyến vú nhỏ.
U nằm ở vị trí trung tâm của vú.
Nạo hạch cũng là một phần của phẫu thuật. Nhất là nạo hạch lympho vùng nách rất cần cho đánh giá tiên lượng.
Xạ trị hỗ trợ là một phần của phương pháp điều trị bảo tồn, được tiến hành sau phẫu thuật cắt u. Xạ trị giúp giảm nguy cơ tái phát cho những bệnh nhân nguy cơ cao như bệnh nhân có nhiều hạch vùng, bệnh nhân có u nguyên phát to.
Liệu pháp toàn thân: nguy cơ di căn vi thể ở những ung thư giai đoạn sớm là có. Vì vậy, hóa trị và nội tiết là những biện pháp điều trị toàn thân có thể diệt các tế bào ác tính lan tràn. Ở các giai đoạn muộn hơn, hóa trị và nội tiết trị liệu còn có thể làm giảm bớt thể tích khối u, chuyển từ giai đoạn không mổ được thành mổ được hoặc kéo dài thời gian sống và chất lượng sống của người bệnh.
Cách phát hiện sớm bệnh ung thư vú
Tự khám vú
Phương pháp tự khám vú được khuyến cáo tiến hành hàng tháng sau sạch kinh 5 ngày đối với phụ nữ từ 20 tuổi trở lên. Phương pháp này nếu được thực hiện đúng cách có thể giúp người bệnh phát hiện sớm một khối u ở vú, được điều trị sớm và vì vậy tiên lượng tốt hơn.
Đứng trước gương trong phòng có đủ ánh sáng, cởi trần, cánh tay buông xuôi hai bên hông, rồi đổi tư thế:hai tay để phía sau hông, nghiêng nhẹ người tới trước; đưa tay ra sau gáy, sau đó quan sát lại; chống tay lên hông làm cử động cơ ngực lên xuống bằng động tác nâng vai lên hay hạ vai xuống. Quan sát cả hai vú xem có thay đổi gì về kích thước (một bên lớn hơn thường lệ, hoặc teo nhỏ lại), da vú (sần da cam, da lõm xuống). Ấn nhẹ núm vú xem có máu hoặc chất dịch chảy ra không.
Sờ nắn: đưa tay phải ra sau gáy, dùng tay trái sờ nắn vú phải, 4 ngón tay đặt sát vào nhau thành một mặt phẳng, ép đều đặn lên các vùng khác nhau của tuyến vú vào thành ngực theo hướng vòng xoáy ốc từ đầu vú trở ra ngoài; kiểm tra từng vùng của vú và cả về phía hố nách. Sau đó làm tương tự với vú bên trái.
Nằm ngửa thoải mái, kê gối mỏng ở dưới lưng bên trái; lặp lại quá trình sờ nắn sau đó chuyển gối làm lại cho bên phải.
Qua mỗi lần tự khám như vậy, nếu thấy khối u, hạch hoặc mảng cứng bất thường, chị em nên tới cơ sở chuyên khoa để xác định lại.
Chụp vú
Chụp vú có ưu thế rõ rệt là có thể phát hiện các tổn thương bất thường ở tuyến vú ngay cả trên lâm sàng chưa sờ thấy có khối u. Nếu khối u vú được bác sĩ phát hiện và khẳng định thì việc chụp Xquang vú nên được thực hiện. Phụ nữ trên 40 tuổi nên chụp vú hàng năm. Nếu trong gia đình có người bị ung thư vú thì nên chụp vú kiểm tra bắt đầu từ 30 tuổi.
Chụp vú là phương pháp được tiến hành rộng rãi ở các nước phát triển. Tại các nước này, người ta tiến hành chụp hàng loạt nhằm phát hiện ra các ung thư vú ở giai đoạn tiền lâm sàng. Ở giai đoạn này, thầy thuốc cũng như bệnh nhân không sờ thấy u mà bệnh chỉ được phát hiện dựa trên hình ảnh canxi hóa qua phim chụp vú sau đó người bệnh được định vị, sinh thiết để chẩn đoán xác định.
Theo Trần Nhung